Tiếng Nhật


– Nguồn gốc tiếng Nhật là gì?
– Đặc trưng của tiếng Nhật là gì?
– Chữ mềm và chữ cứng được tạo ra như thế nào
– Phải học bao nhiêu chữ Hán thì đủ?
– Chữ Hán, chữ mềm và chữ cứng được dùng như thế nào?
– Giữa viết ngang và viết dọc, loại nào phổ biến hơn?
Chi tiết về tiếng địa phương của NHẬT BẢN?

1.Nguồn gốc tiếng Nhật là gì?

Ngôn ngữ gần với tiếng Nhật nhất là tiếng Triều Tiên. Hai thứ tiếng này giống nhau gần như hoàn toàn về cách sắp xếp chủ ngữ (shugo) – bổ ngữ (mokutekigo) – vị ngữ (jutsugo). Tuy nhiên không có bằng chứng xác đáng nào chứng minh được rằng hai thứ tiếng này có chung một nguồn gốc. Có rất nhiều giả thiết về nguồn gốc của tiếng Nhật: Từ nhóm ngôn ngữ Ural-Altaic, từ nhóm ngôn ngữ Malayo-Polynesian ở phía nam, từ nhóm ngôn ngữ Ấn Độ-Tây Tạng, từ nhóm ngôn ngữ Tamil vân vân. Nói tóm lại, vẫn chưa biết nguồn gốc của tiếng Nhật. Tuy nhiên, nếu xét riêng về mặt ngôn ngữ thì tiếng Nhật sử dụng rất nhiều từ Hán do có sự giao lưu văn hoá giữa hai nước Nhật và Trung Hoa. Hơn thế nữa chữ mềm (Hiragana – bình giả danh) và chữ cứng (Katakana – phiến giả danh) lại được tạo ra dựa trên chữ Hán. Tiếng Nhật hiện nay được tạo ra nhờ chữ Hán và chữ Kana (giả danh).

2.Đặc trưng của tiếng Nhật là gì?

Trước hết phải nói đến đặc điểm phát âm. Trừ N (ん) ra, một âm được biểu hiện chỉ bằng nguyên âm hay cặp phụ âm cộng nguyên âm. Ví dụ:

Từ tokei (Đồng hồ) được tạo bởi một cặp to, cặp ke và nguyên âm i -> to-ke-i
Từ watakushi (Tôi) được tạo bởi cằp wa, cặp ta, cặp ku và cặp shi -> wa-ta-ku-shi
Trọng âm thì không phân biệt mạnh-yếu như tiếng Anh mà phân biệt cao-thấp. Ví dụ khi đọc YOKOHAMA thì YO đọc với giọng cao còn KOHAMA đọc với giọng thấp hơn. Tuy nhiên không phải trọng âm là giống nhau trong cả nước mà khác nhau từ đông Nhật Bản sang tây Nhật Bản, từ vùng này qua vùng khác. Từ vựng của tiếng Nhật gồm có từ thuần Nhật, từ Hán Nhật và từ mượn từ tiếng nước ngoài viết bằng Katakana (phiến giả danh, chữ cứng).

Cấu tạo của một câu văn là như sau:
1) Chủ ngữ + bổ ngữ + động từ.
Ví dụ: Kare wa daigakusei desu = Cậu ấy sinh viên là
2) Chủ ngữ + đối tượng + động từ
Ví dụ: Watashi ha gohan wo tabeta = Tôi cơm ăn

Chỉ cần chú ý rằng động từ luôn đứng cuối câu và từ bổ nghĩa luôn đứng trước từ được bổ nghĩa thì có thể thay đổi vị trí các từ trong câu khá tự do. Nếu so sánh với tiếng Anh thì tiếng Nhật rất phát triển thể kính ngữ giống như trong tiếng Hàn Quốc. Trong đàm thoại thì từ nam giới và từ nữ giới cũng được phân biệt rõ ràng.

3.Chữ mềm và chữ cứng được tạo ra như thế nào?

Chữ Kana được tạo ra bằng cách đơn giản hoá chữ Hán sau khi đã loại bỏ nghĩa của chữ Hán đó, chỉ giữ lại âm. Tác phẩm Vạn diệp tập (Man’yoshu) được biên soạn vào khoảng giữa thế kỷ thứ 8 bao gồm khoảng 4500 câu ca, toàn bộ được viết bằng chữ Hán (Kanji) theo kiểu ateji (Hoạt tự – chỉ dùng âm, không quan tâm đến nghĩa của chữ đó để biểu thị một từ). Sau đó Kana được hoàn thiện dần dần và vào cuối thế kỷ thứ 9, bộ chữ mềm Hiragana được hoàn thành. Chữ cứng Katakana là bản đơn giản hoá hơn nữa của Hiragana. Katakana cũng được tạo ra cùng thời với Hiragana. Ngay từ đầu thế kỷ thứ 9 đã có nhiều văn tự viết bằng Katakana.

4.Phải học bao nhiêu chữ Hán thì đủ?

Phần lớn trong số tổng cộng khoảng 50 nghìn chữ Hán đã được đưa vào tiếng Nhật. Bên cạnh đó còn có những chữ Hán do người Nhật tạo ra. Ví dụ chữ touge 峠 được ghép bởi 3 chữ: sơn, thượng, hạ có nghĩa là đèo. Tuy nhiên trong cuộc sống hàng ngày không cần thiết phải nhớ nhiều chữ Hán đến như thế. Hiện nay mỗi người nên nhớ khoảng 1945 chữ trong bảng thường dùng Hán tự. Bảng này do bộ giáo dục Nhật Bản qui định và đã được Việt hoá bởi tác giả Đỗ Thông Minh. Phần lớn người Việt Nam ở Nhật dùng bảng này như là một công cụ không thể thiếu khi học tiếng Nhật.

5.Chữ Hán, chữ mềm và chữ cứng được dùng như thế nào?

Trong tiếng Nhật tồn tại đồng thời 3 loại ký tự: Chữ Hán (Kanji), chữ mềm (Hiragana) và chữ cứng (Katakana). Chữ Hán là chữ tượng hình du nhập vào từ Trung Quốc, chữ mềm và chữ cứng là bản đơn giản hoá của chữ Hán để biểu thị âm. Hầu hết danh từ được viết bằng chữ Hán (Từ Hán-Nhật), động từ và tính từ thì được viết hỗn hợp giữa chữ Hán và chữ mềm. Trợ từ và trợ động từ được viết bằng chữ mềm, từ ngoại lai (Anh, Đức, Pháp, Bồ Đào Nha, Hà Lan …) được viết bằng chữ cứng. Do tiếng Nhật có nhiều từ đồng âm khác nghĩa nên viết bằng chữ Hán (nhìn chữ đoán được ý) sẽ dễ hiểu hơn.

6.Giữa viết ngang và viết dọc, loại nào phổ biến hơn?

Các văn bản có tính chất lịch sử đang tồn tại ở Nhật, tất cả đều được viết dọc. Ngày trước tiếng Nhật chỉ có loại viết dọc này thôi. Tuy nhiên với sự du nhập của văn hoá phương Tây, cách viết dọc trở nên bất tiện khi viết chữ alphabet, chữ số Ả Rập và các công thức toán học. May thay chữ Hán và chữ Kana có đặc điểm là không thay đổi ý nghĩa cho dù viết ngang hay viết dọc. Cách viết ngang ngày càng trở nên phổ biến trong các văn bản liên quan đến khoa học tự nhiên. Ngày nay, trừ sách quốc ngữ ra, hầu như tất cả sách giáo khoa khác đều sử dụng cách viết ngang. Lớp trẻ không hề thấy khó khăn gì trong chuyện đọc, viết ngang. Chắc chắn cách viết ngang sẽ ngày càng được phổ biến.

7.Chi tiết về tiếng địa phương của NHẬT BẢN

Hôm nọ mình tìm được bài viết về tiếng địa phương của Nhật cũng hay lắm nhưng lúc đó hình như nhatban.net c1 vấn đề nên post không được. bữa nay post lại.

Tiếng địa phương của Nhật gồm 6 khu vực như sau:大阪, 名,
博多, 広島, 津軽, 甲州. Trong này có ghi nhiều cách nói nghe cũng bất ngờ và thú vị. Các bạn xem thử coi sao.