Việt Nam gia nhập WTO nhìn từ góc độ an ninh quốc gia


Đại hội IX của Đảng đã nhận định: Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”. Vì vậy, việc Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vừa là nhu cầu tất yếu khách quan, vừa là nhu cấp cấp bách trong tình hình hiện nay.


WTO – sân chơi kinh tế – thương mại lớn nhất toàn cầu

WTO ra đời ngày 1-1-1995 là kết quả của vòng đàm phán U-ru-goay kéo dài trong suốt 8 năm (1986-1994). Sự ra đời của WTO nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của thương mại thế giới. Nó kế thừa Hiệp định chung về thuế quan thương mại (GATT) năm 1947, nhưng đã mở rộng thêm các lĩnh vực: thương mại về nông nghiệp, hàng dệt may, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ mà GATT chưa đề cập đến. Sự ra đời của WTO tạo ra một cơ chế pháp lý tương đối hoàn chỉnh, điều chỉnh các quan hệ thương mại và hàng hóa toàn cầu. WTO là một tổ chức liên chính phủ, hoạt động độc lập với tổ chức Liên hợp quốc. WTO có 148 nước thành viên, hiện còn 27 nước đang trong quá trình đàm phán để gia nhập tổ chức này. Cơ quan cao nhất của WTO là Hội nghị bộ trưởng kinh tế – thương mại của tất cả các thành viên, thường hai năm họp một lần. WTO có 5 cơ quan thường trực điều hành công việc chung là : Hội đồng thương mại hàng hóa; Hội đồng thương mại dịch vụ; Hội đồng về các vấn đề sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại; Cơ quan rà soát chính sách chính sách thương mại; Cơ quan giải quyết tranh chấp. Dưới Hội đồng là các ủy ban và cơ quan giúp việc, đặc biệt là Ban thư ký điều phối công việc của WTO, trụ sở đóng tại Giơ-ne-vơ, Thụy Sỹ. WTO hoạt động dựa trên 5 nguyên tắc:

Một là, thương mại không có sự phân biệt đối xử. Nguyên tắc này được cụ thể hóa trong các quy định về quy chế đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT) mà nội dung chính là dành sự đối xử bình đẳng với thương nhân, hàng hóa, dịch vụ của các bên tham gia thương mại.

Hai là, tạo dựng một nền tảng ổn định cho thương mại. Các nước thành viên có nghĩa vụ minh bạch hóa các chính sách của mình, cam kết không có những thay đổi bất lợi thương mại; nếu thay đổi phải báo trước tham vấn và bãi trừ.

Ba là, bảo đảm thương mại ngày càng tự do hơn thông qua đàm phán. Kể từ Hiệp định GATT năm 1947 đến nay, WTO đã trải qua vòng đàm phán để giảm thuế, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế và mở cửa thị trường.

Bốn là, tạo môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng. WTO không cho phép bán phá giá, trợ cấp hàng hóa, đồng thời các nước được áp dụng biện pháp tự vệ khi nền sản xuất trong nước bị đe dọa gây thiệt hại bởi hàng nhập khẩu.

Năm là, điều kiện đặc biệt dành cho các nước đang phát triển gồm một số ưu đãi trong việc thực thi các hiệp định, đồng thời chú ý đến trợ giúp kỹ thuật với mục tiêu bảo đảm sự tham gia sâu, rộng hơn của họ vào hệ thống thương mại đa phương. Nhằm điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế, WTO còn có 16 hiệp định khác như: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT 1994), Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT); Hiệp định về các biện pháp vệ sinh kiểm dịch (SPS) Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu (ILP); Hiệp định về quy tắc xuất xứ (ROO); Hiệp định về kiểm tra trước khi giao hàng (PSI); Hiệp định trị giá tính thuế hải quan (ACV); Hiệp định về trợ cấp (SCM) và phá giá (ADP); Hiệp định về nông nghiệp (AOA); Hiệp định về thương mại dệt, may mặc (ATC), Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS), Hiệp định về thương mại dịch vụ (GATS) Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại và quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) Thỏa thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU) v.v..

Tất cả các thành viên WTO đều phải tham gia các hiệp định nói trên, quy định này gọi là sự chấp thuận cả gói. Bên cạnh đó, WTC vẫn duy trì hai hiệp định nhiều bên, các thành viên WTO có thể tham gia hoặc không tham gia, đó là: Hiệp định về buôn bán máy bay dân dụng; Hiệp định về mua sắm của chính phủ. Do yêu cầu thương mại thế giới tiếp tục phát triển nên tại Hội nghị bộ trưởng WTO lần thứ tư ở Đô-ha (Ca-ta) tháng 1 1- 2001, các bộ trưởng WTO đã quyết định phát động một chương trình đàm phán mới về hệ thống thương mại đa phương. Đây là kết quả của những nỗ lực chuẩn bị trong nhiều năm. Với một chương trình nghị sự rộng, đề cập đến 7 nhóm vấn đề – gồm nông nghiệp, dịch vụ, sản phẩm phi nông nghiệp, chống bán phá giá, thương mại và môi trường và các vấn đề mới đặt ra tại Hội nghị bộ trưởng lần thứ nhất tại Xin-ga-po như đầu tư, chính sách cạnh tranh – vòng đàm phán mới sẽ là một bước đi tích cực nhằm tự do hóa thương mại toàn cầu một cách toàn diện và sâu sắc hơn.

Theo chương trình nghị sự, vòng đàm phán mới sẽ kết thúc vào ngày 1-1-2005. Song, tiến trình đến nay gặp rất nhiều khó khăn do các nước nông nghiệp phát triển không muốn mở cửa thị trường cho các nước đang phát triển. Các nước phát triển phải bỏ trợ cấp nông nghiệp dưới các hình thức khác nhau (mức trợ cấp này đã lên gần 1 tỷ USD/ngày). Đồng thời, các nước đang phát triển yêu cầu các nước phát triển mở cửa thị trường cho hàng nông sản của họ. Các nước phát triển không nhượng bộ và còn yêu cầu các nước đang phát triển chấp nhận vấn đề mới là môi trường, cạnh tranh, bỏ trợ cấp thủy sản, vấn đề lao động với thương mại và cơ chế giải quyết tranh chấp. Chính vì những mâu thuẫn này nên hội nghị Can – cun đã thất bại và lịch trình đàm phán sẽ phải kéo thêm một và năm nữa. Hiện nay trên thế giới có khoảng 50 tổ chức thương mại khu vực và thế giới. WTO là tổ chức lớn nhất, chiếm trên 90% thương mại toàn cầu.

Lợi ích kinh tế và lợi ích an ninh khi tham gia WTO

WTO giúp các nước thành viên phát triển ổn đinh, tin cậy lẫn nhau hơn. Như đã biết, WTO là sự kế thừa và phát triển của GATT. Lịch sử loài người cũng đã từng biết đến những thời kỳ phát triển huy hoàng của thương mại và cả những tàn khốc của chiến tranh đế quốc để phân chia thị trường thế giới do tranh chấp thương mại. Những cuộc chiến tranh thương mại những năm 30 và chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) đã nói lên điều đó. Ngày nay, những nguyên tắc cơ bản của WTO đã tạo cơ sở pháp lý quốc tế giúp cho thương mại được thuận lợi và giải quyết các tranh chấp bình đẳng hơn, tạo dựng và duy trì sự hợp tác, lòng tin giữa các quốc gia, góp phần mang lại hòa bình cho thế giới. Hai bước phát triển thương mại ở châu Âu ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai đã giúp tránh được nguy cơ tái diễn căng thẳng của thời kỳ tiền chiến tranh. Đó là hợp tác quốc tế phát triển trong ngành than và sắt thép châu Âu, và Hiệp định GATT trên phạm vi toàn cầu năm 1947. WTO tạo cho nhân loại có cơ hội kiềm chế tham vọng độc quyền bá chủ thế giới bằng chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc

WTO trọng tài duy nhất giải quyết mâu thuẫn thương mại giữa các nước. Thực tế cho thấy, tự do hóa vừa tạo điều kiện cho thương mại phát triển nhanh, nhưng cũng tạo ra nhiều hình thức tranh chấp thương mại mới, như: “chiến tranh ô-tô” giữa Mỹ và Nhật, “chiến tranh sắt thép” giữa Mỹ và tất cả các quốc gia sản xuất thép trên thế giới và các cuộc “chiến tranh đậu tương”, “chiến tranh thịt bò”… Nhưng, nhờ có định chế của WTO yêu cầu các thành viên có nghĩa vụ phải đưa các tranh chấp của mình đến WTO mà không được đơn phương giải quyết, nên đã tránh được các cuộc chiến tranh nổ ra giữa các nước và các nhóm nước với nhau. Vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá ba sa của Hoa Kỳ đối với Việt Nam với kết luận của Bộ thương mại Hoa Kỳ là vô cùng phi lý, không công bằng, nhưng vì chúng ta chưa phải là thành viên của WTO nên tổ chức này không thể can thiệp để bảo đảm sự công bằng hơn.

WTO làm giảm bớt sự bất bình đẳng, giúp các nước nhỏ cũng có tiếng nói và thành lập liên minh góp chung nguồn lực. Cho đến nay, WTO đã đưa ra được một hệ thống các quy định liên quan đến tất cả các lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, trong đó có khoảng 60 quy định để điều tiết các hoạt động và tập trung vào 16 hiệp định chính. Các hiệp định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại phát triển. Trải qua 8 vòng đàm phán từ GATT đến WTO, mỗi vòng lại tạo thêm môi trường pháp lý mở cửa thị trường, cắt giảm thuế, xóa bỏ các rào cản, tạo thêm điều kiện cho đầu tư và thương mại phát triển. Các quyết định của WTO được thực hiện bằng sự nhất trí ý kiến. Các hiệp định của WTO được thực hiện bằng thương lượng và thông qua bằng sự nhất trí ý kiến và được Quốc hội của các nước thành viên phê chuẩn, nên đã làm cho hoạt động dễ dàng hơn. Hệ thống WTO đã giảm bớt rào cản mậu dịch thông qua đàm phán và áp dụng nguyên tắc không phân biệt đối xử. Kết quả là chi phí sản xuất giảm, giá thành sản phẩm và dịch vụ cũng giảm, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng.

WTO làm giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan, tăng thương mại, tăng thu nhập quốc dân và thu nhập cá nhân, làm cho đời sống nhân dân các nước thành viên được cải thiện hơn. Theo tính toán, tác động của vòng đàm phán U-ru-goay 1994 làm thu nhập của thế giới có thêm 109-510 tỷ USD và tác động của Vòng đàm phán Đô-ha tháng 11- 2001 cũng làm tăng thu nhập cho thế giới hàng trăm tỷ USD. Báo cáo thống kê của WTO năm 2002 cho thấy, 146 thành viên WTO đã chiếm 90% thương mại dịch vụ và trên 85% thương mại hàng hóa toàn cầu.

WTO tạo ra nhiều sự lựa chọn hơn về đối tác số lượng và chất lượng hàng hóa. Hệ thống chính sách của tổ chức này chi phối toàn bộ hoạt động thương mại toàn cầu, kích thích tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm mới cho người lao động. Thực tế của Việt Nam cũng cho thấy, xuất khẩu chiếm gần 50% GDP, xuất, nhập khẩu và đầu tư góp phần đáng kể vào tốc độ tăng trưởng cao mà chúng ta đã đạt được trong thời gian qua. Các nước và vùng lãnh thổ tham gia WTO thì hàng hóa và các nhà doanh nghiệp được đối xử bình đẳng, không phân biệt quốc gia lớn hay nhỏ.

WTO kích thích chính phủ các nước thành viên hoạt động tốt hơn. Lợi ích quan trọng mà WTO mang lại là sự tác động của cả hệ thống đối với các chính phủ. Trong chừng mực nào đó, nó hạn chế và tránh cho các chính phủ khỏi sa vào quyền lợi hẹp hòi trước mắt mà không nghĩ tới lợi ích lâu dài như đã xảy ra trong những năm đầu của thế kỷ 20, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch dẫn đến chiến tranh thương mại không có kẻ thắng mà chỉ có kẻ thua. Hệ thống này còn giúp và khuyến khích chính phủ hoạt động tốt hơn thông qua hệ thống minh bạch hóa chính sách, làm cho chính sách rõ ràng dự đoán được loại bỏ sự can thiệp tùy tiện tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế, thương mại; loại bỏ dần tham nhũng và giảm bớt tình trạng gian lận thương mại. Đối với các nhà doanh nghiệp, tham gia vào WTO sẽ có thì trướng toàn cầu có điều kiện tìm kiếm vốn và kỹ thuật hiện đại cho sản xuất, có điều kiện học hỏi kinh nghiệm quản lý để nâng cao năng lực cạnh tranh trong tiến trình hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

Những vấn đề cần quan tâm từ góc độ an ninh quốc gia

Triệt để khai thác mặt tích cực của WTO

Tham gia WTO là bước hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Tận dụng các nguyên tắc, các định chế của WTO thông qua quan hệ thương mại, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ. . . sẽ tạo điều kiện cho nước ta thực hiện chiến lược đan xen, cân bằng lợi ích kinh tế có lợi cho xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng – an ninh. Từ đó, môi trường an ninh khu vực ổn định hơn, lợi thế hơn ngay cả tình huống phải tiến hành đấu tranh an ninh, quốc phòng. Trong bối cảnh nhất định, vì lợi ích kinh tế, sự điều chỉnh bởi các nguyên tắc của WTO mà các đối tác – bao gồm các công ty, tập đoàn tư bản và đại diện của họ trong chính quyền các nước – cũng có thể lên tiếng ủng hộ hoặc bảo vệ chúng ta khi nảy sinh những bất đồng trong quan hệ giữa nước ta với các nước về kinh tế cũng như an ninh.

Gia nhập WTO, nước ta có thêm khả năng tăng cường hợp tác quốc tế không chỉ về thương mại, đầu tư, mà còn cả lĩnh vực an ninh, quốc phòng, có môi trường thuận lợi để ta mở rộng trao đổi thông tin với các quốc gia thành viên khác trong khu vực và quốc tế, nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, hướng tới mục tiêu hòa bình, ổn định và phát triển. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực an ninh, quốc phòng hoặc liên quan đến an ninh, quốc phòng đòi hỏi phải có sự hợp tác song phương, đa phương, hợp tác quốc tế, hợp tác toàn cầu mới giải quyết được.

Thông qua WTO, nước ta sẽ có điều kiện tiếp thu khoa học – công nghệ tiên tiến, từng bước tiếp cận nền an ninh, quốc phòng hiện đại Sự phát triển chung của kình tế thương mại, dịch vụ đầu tư sẽ làm cho thương mại hàng hóa phục vụ an ninh, quốc phòng sôi động hơn, tạo thuận lợi trong quan hệ trao đổi, đầu tư, đổi mới công nghệ, hiện đại hóa trang bị cho an ninh, quốc phòng. Mặt khác ta có cơ hội tiếp thu được kinh nghiệm ứng dụng hóa sản phẩm khoa học – công nghệ của các nước tiên tiến có thể dựa vào thành quả kinh tế của mình và trình độ khoa học – công nghệ thế giới để biến tiềm lực kinh tế, khoa học – công nghệ quốc gia thành tiềm lực và sức mạnh an ninh, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc. Sự bùng nổ thông tin – trong đó có thông tin kinh tế – thương mại, quân sự – đã khiến những vấn đề về lý luận và thực tiễn ngày càng được phổ biến rộng rãi và nhanh chóng thành tri thức chung của nhân loại. Các quốc gia trên thế giới đang ra sức nắm bắt, tận dụng mặt tích cực của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế để đẩy mạnh xây dựng, phát triển kinh tế, củng cố an ninh quốc gia của mình.

Hạn chế tối đa mặt tiêu cực của WTO

Khi gia nhập WTO, thông qua các hiệp định song phương, đa phương, sự hình thành các khu kinh tế mở, kinh tế cửa khẩu, các tam giác, tự giác kinh tế liên quốc gia. . . , thì vấn đề bảo đảm an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ cả biên giới trên đất liền, hải đảo và trên không sẽ khó khăn hơn trước. Hiện nay biên giới trên bộ giữa nước ta với ba nước láng giềng đã có hàng chục cặp cửa khẩu, trong đó có nhiều cặp cửa khẩu mở theo hiệp định đã ký và nhiều cặp mở ngoài hiệp định do địa phương hai bên thỏa thuận (chưa kể đường mòn và các chợ biên giới cả trên đất liền và trên biển). Do đó, vấn đề bố trí, canh phòng, tuần tra bảo vệ biên giới quốc gia là hết sức phức tạp, không thể áp dụng các phương pháp bảo vệ như trước đây.

Các cuộc xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ nảy sinh do các vấn đề sắc tộc, tôn giáo và sự can thiệp trực tiếp hay gián tiếp của các thế lực hiếu chiến, thù địch, tội phạm quốc tế cũng dễ dàng tác động đến nước ta một cách toàn diện, cả trong công tác bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Các cuộc chiến tranh và khủng hoảng ở các nước hiện nay đã nói lên điều đó.

Sự nghiệp an ninh quốc gia của mỗi nước ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào an ninh khu vực, an ninh thế giới. Nhiều sự kiện nóng hổi đã và đang chứng tỏ khoảng cách về địa lý và sự ngăn cách về biên giới hành chính quốc gia không còn có ý nghĩa và tầm quan trọng như trước kia. “Biên giới mềm”, “biên giới thông tin”, “không gian điện tử” và hàng loạt vấn đề mới về an ninh quốc gia, hoặc liên quan đến công tác an ninh quốc gia xuất hiện như: an ninh kinh tế, an ninh tài chính, an ninh văn hóa, an ninh thông tin, an ninh máy tính. . . đã và đang làm cho khả năng kiểm soát, ngăn chặn của nhà nước rất khó có hiệu quả. Các cuộc xâm nhập, tiến công từ bên ngoài bằng các thủ đoạn thông tin kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và các, cuộc chiến” trên mạng lnternet sẽ diễn ra ngày càng phức tạp. Mặt khác, các thế lực phản động đã và đang lợi dụng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và các định chế của các tổ chức kinh tế quốc tế để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ đối với nước ta, làm cho nhiệm vụ bảo đảm an ninh quốc gia ngày càng trở nên phức tạp hơn.

Nguy cơ độc lập chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc bị vi phạm ngay đặt ra trong nước, nhất là ở các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các quan hệ thương mại, đầu tư Thực tế cho thấy, trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, tuy đã có sự điều chỉnh bằng pháp luật, nhưng do sự cạnh tranh đối tác với các nước trong khu vực và phải phụ thuộc vào thông lệ quốc tế. . . , nên nhiều vấn đề về an ninh quốc gia hoặc liên quan đến an ninh quốc gia chưa thể hoặc không thể trực tiếp triển khai. Trong các khu kinh tế nói trên, việc xây dựng tổ chức đảng, sự hoạt động của lực lượng tự vệ, an ninh, công đoàn và các tổ chức quần chúng khác… còn nhiều khó khăn.

Chủ động giải quyết những vấn đề đặt ra. Cho đến nay, nước ta đã là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực như: IMF, WB, ASEAN, AFTA, APEC và đang đàm phán để sớm gia nhập WTO. Nước ta đã có quan hệ thương mại song phương với trên 100 nước và quan hệ đầu tư với gần 60 quốc gia và vùng lãnh thổ. Do đó, những vấn đề đặt ra cho nhiệm vụ an ninh quốc gia là không nhỏ và rất phức tạp, trong đó có những vấn đề chủ yếu sau:

Một là, công tác an ninh – quốc phòng phải sớm thích ứng với những thay đổi trong các hoạt động kinh tế – xã hội như: điều chỉnh hệ thống pháp luật có liên quan đến các hoạt động kinh tế cho phù hợp với các định chế của WTO; áp dụng thích hợp các thông lệ quốc tế khi xử lý các quan hệ kinh tế. chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia và của các doanh nghiệp trong quan hệ không tương sức với các đối tác nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực thương mạt, đầu tư, dịch vụ, sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ và các hoạt động chính trị, ngoại giao. . .

Hai là, tiếp tục đổi mới tư duy về xây dựng, củng cố an ninh – quốc phòng theo yêu cầu mới, nhất là với vấn đề xác định mục tiêu, đối tượng, không gian, thời gian của các tình huống mà an ninh – quốc phòng phải chuẩn bị đối phó. Trong hội nhập kinh tế quốc tế tham gia WTO, nếu xảy ra xung đột vũ trang hoặc chiến tranh sẽ là kiểu dạng mới khác cả về mục tiêu, tính chất, mức độ, phạm vi so với những cuộc chiến tranh xâm lược trước đây. Khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, quan hệ kinh tế phát triển, tỷ trọng các dự án đầu tư của nước ngoài nhất là Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) ngày càng tăng so với tổng vốn đầu tư nước ngoài của cả nước thì tính chất của công tác bảo- đảm an ninh quốc gia sẽ đa dạng và phức tạp hơn.

Ba là, phương thức chuẩn bị lực lượng và thế trận an ninh – quốc phòng sẽ có nhiều yêu cầu mới để bảo đảm sẵn sàng giành thắng lợi trong mọi tình huống. Trọng tâm của nhiệm vụ an ninh quốc gia là phải phát huy sức mạnh tổng hợp để loại trừ nguy cơ chiến tranh, đồng thời chuẩn bị để đối phó thắng lợi với loại hình chiến tranh kiểu mới của địch nếu chúng cố tình gây ra. Trong xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia phải giải quyết mối quan hệ giữa khai thác tiềm năng với chuẩn bị thực lực như thế nào cho phù hợp. Chuẩn bị thế trận quốc phòng an ninh theo quy hoạch, nhất là các trọng điểm, then chốt về chiến lược có liên quan trực tiếp đến các khu kinh tế liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài. Việc xây dựng lực lượng an ninh, tự vệ trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn là vấn đề cần thiết. Trong thực hành đấu tranh chống chiến lược diễn biến hòa bình” và các hoạt động khác của các thế lực thù địch sẽ có nhiều tình huống phức tạp và các biện pháp đối phó phải rất đa dạng. Khi có những tác động của toàn cầu hóa, các định chế của WTO, vấn đề dân tộc, sắc tộc, tôn giáo ngày càng trở nên nhạy cảm hơn.

(Bài viết của ông Nguyễn Nhâm, Tạp chí Lý luận chính trị tháng 5/2005).